qhim xét việt nam
Bậy quá :)) Vợ dâm đéo chịu được làm em xuất tinh luôn vào lồn, sướng quá ra luôn, Trym anh nhỏ quá làm em không sướng, Em Ra rồi anh ơi sướng quá trời quá đất luôn - Việt Nam, Chồng ơi, em không địt đâu, Chơi Anh Hưng Sóc Trăng Trên Ghế Tình Yêu, Nghỉ Hè Rủ Anh Nam
Nỗi đau gia đình trên phim Việt Cảnh trong phim The Blanket của đạo diễn Mitpasa Sitthihakpanya Đó là một nông thôn trông có vẻ yên bình, nhuần nhị nhưng đã ẩn chứa những đứt gãy thời cuộc. "Câu chuyện trong phim là chuyện thật của gia đình tôi. Tôi sinh ra ở một làng quê rất nghèo, mọi người thường rời quê ra đi để tìm việc mong thoát nghèo.
may bay ba gia viet nam may bay ba gia quay len viet nam mbbg viet nam. Máy baybà già dâm đãng u40 chưa chồng rất dâm . 2k2 2k loan luan gai goi. phim sexviệt nam loạn luân với cô em họ quá dâm . 2k2 2k loan luan gai goi. phim sexviệt nam e gái lồn hồng thủ dâm .
Nữ Hoàng Gym Việt Nam Bị Địt ,Nhớ Mở Loa Nghe Rên 3 min. 3 min Haihangto1993 - 1080p. Fuck me 9 min. 9 min Vietnamgirl194 - 2.4M Views - 1080p. rau dâm Hutech sài gòn vietnam Demo 11 min. 11 min Boydalattvn - 1080p. Vợ chồng viêt nam 83 sec. 83 sec Sexboyvn1975Boy - 1080p.
Trước đó, vào ngày 22.6, vụ án này được tòa quyết định xét xử kín.Điều này đã nhận nhiều ý kiến tranh luận. Cũng theo nguồn tin, do bị cáo Nguyễn Võ Quỳnh Trang (27 tuổi, ngụ Gia Lai, sống chung như vợ chồng với cha ruột của bé gái 8 tuổi - bị cáo Nguyễn Kim Trung Thái) bị xét xử về tội "giết người
Site De Rencontre Belge Entièrement Gratuit. Xin xăm Quan Âm 100 quẻ xăm Quan Âm linh ứng - Tử Vi Số Mệnh Xưa nay, tất cả mọi việc trong đời, thành hay bại đều không phải do 1 yếu tố con người quyết định mà phải hội tụ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đấy là lý do mà người dù giỏi đến đâu cũng không tránh khỏi 8 chữ Mưu sự tại nhân, Thành sự tại thiên. Xin xăm QUAN ÂM LINH XÁM linh ứng hôm nay tại Tử Vi Số Mệnh Soi rọi dòng lịch sử, các việc lớn của các bậc chính nhân quân tử và các việc của thường dân đều lấy chữ tâm làm trọng, lấy phép thánh hiền để răn. Do vậy hiện nay rất nhiều người trước khi làm việc gì hay quyết định bất cứ việc gì đều xin xăm quẻ quan âm bồ tát. Vậy thực sự việc xin xăm quan âm bồ tát kinh quẻ hỏi việc đại sự thế nào và quẻ quan âm linh xăm phải có những điều gì hãy theo dõi bài viết sau để có những thông tin. Nguồn gốc của quẻ quan âm linh xăm Thực ra việc xin xăm của người phương Đông đều được bắt nguồn từ Trung Quốc. Khoảng 2500 năm trước công nguyên, hoàng đế Hiên Viên đã gieo quẻ âm dương trước khi chiến đấu với thủ lĩnh Xi Vựu. Và đối với quán thế âm bồ tát linh quẻ được gắn với câu chuyện sau Tương truyền rằng khi Đức Huyền Trang sang tây trúc thỉnh kinh. Khi qua núi Bồ Đà được gặp Đức Phật Quan Âm. Đức Phật bảo với ngài rằng Đường sang Tây Trúc nhiều yêu ma quỷ ám, gian nan hiểm trở, vì thấy ông là người kính tin nên Đức Phật ban cho ông 32 quẻ quan âm thế bồ bát là quẻ tối thượng linh sẽ thấy rõ những cát hung họ phác nhân tiền. Nếu nhận thấy việc gì hồ nghi phải trí thành thắp hương trúc đào để bói. in xăm quẻ quan âm bồ tát được nhiều người lựa chọn trước khi quyết định việc đại sự Do vậy đến nay việc gieo quẻ quan âm bồ tát hay xinxam quan the am bo tat mang lại niềm tin cho mọi người trước khi quyết định một vấn đề lớn nào đó. Cách gieo quẻ quan thế âm bồ tát Muốn xin xăm que quan âm bồ tát, trước tiên phải tắm gội sạch sẽ, quần áo ngay ngắn trang trọng. Tiếp đến người xin cần đến bàn thờ Phật, đốt 3 cây nhanh, vái 3 cái, quỳ xuống, chắp tay và thành tâm độc bài kệ sau Lòng thành đệ tử chiếm linh xăm Cúi lạy VIÊN-THÔNG QUÁN-THẾ-ÂM Bồ Tát từ bi liền cảm ứng Chỉ tường hung kiết, độ trầm luân. Nam mô Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu nạn, Đại Từ Đại Bi, Linh Cảm Người xin cần niệm 7 lần QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT MA-HA-TÁT. Quẻ quan âm linh xăm được thể hiện trong đồng xu âm dương Đọc xong và cắm nhang vào lưu và lạy 3 lạy . Sau đó quỳ xuống chắp tay vái như sau ” Nay, Đệ tử tên họ…; Pháp danh…; ở tại …; vì có việc…kể tên rõ việc cần cầu. Cầu xin bồ tát hiển linh để cho đệ tử chiếm đặng một quẻ trong 32 quẻ, hầu biết hung kiết lẽ nào. ” *Tiếp đến lấy 5 đồng xu đưa qua đưa lại trên khói nhanh 2-3 lần; 2 bàn tay chụm 5 đồng xu xóc đều 4-5 lần, bỏ xuống từng đồng, bắt từ dưới dắp lên và làm như thế đủ 5 lần và xem thứ tự âm dương thế nào sắp lên làm như thế đủ 5 lần, tiếp đến xem thứ tự âm dương bề chữ hoặc số kể là Dương, bề kia kể là Âm. Căn cứ vào Bản tìm quẻ sau để bạn biết quẻ quan âm linh xăm của mình là ở số mấy. Tử Vi số Mệnh chuyên trang tử vi phong thuỷ cải biến vận hạn chuyên sâu hiệu quả! - - Tử Vi Số Mệnh là trang web tra cứu Tử Vi – Phong Thủy hàng đầu tại Việt Nam. Các chuyên gia chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học dự báo của phương Đông và phương Tây, học thuyết âm dương ngũ hành kết hợp với bát quái và chiêm tinh học để đem tới những biện giải chính xác cho độc giả.
Tử vi khoa học GIEO QUẺ - XIN XĂM Xin Xăm Quán Âm Cùng với Xin Xăm Tả Quân thì tục Xin Xăm Quan Âm đã được hình thành từ thời xa xưa ở những ngôi chùa thờ cúng Quan Thế Âm. Chúng ta vẫn thường nhớ đến viếng chùa vào những ngày lễ tết, ngày rằm và mùng một, lễ Vu Lan, Phẩn Đạt...để có thể xin được những lá xăm Tả Quân và biết được ngụ ý của nhà Phật, từ đó có những đường đi đúng đắn trong công việc và sự nghiệp của bạn trong suốt một năm. Lá Xăm Quan Âm bao gồm khoảng 100 lá và chia ra thành những dạng quẻ như Thượng Thượng, Trung Bình, Thượng Kiết, Hạ và Hạ Hạ. Cùng xin xăm Quan Âm để nhận được thẻ xăm của mình nhé. Xin Xăm Quán Âm Quán Âm Linh Xâm Lịch âm dương tháng 6 năm 2023 BÀI VIẾT Xin Xăm Quán Âm NỔI BẬT BÀI VIẾT Xin Xăm Quán Âm MỚI NHẤT
phim Việt nam Cập nhập tin tức phim Việt nam Sự thất bại đau đớn của phim Việt Trong số 10 phim truyền hình được tìm kiếm nhiều nhất trên Google Việt Nam năm qua không có bất cứ cái tên nào của Việt Nam. Phim chiếu rạp thì chỉ có 3 đại diện trong nước. Người có tuổi nhớ kỷ niệm xưa khi xem Em và Trịnh’ Không khó để nhận thấy khán giả đến với “Em và Trịnh” có độ tuổi trải dài qua nhiều thế hệ. Trong rạp chiếu Em và Trịnh là có nhiều mái đầu bạc ngồi lẫn với GenZ. Quản phim trong hay ngoài nước đều phải chặt như nhau "Quan điểm về quản lý đưa ra là quản trong nước như thế nào thì quản nước ngoài như thế, phải bình đẳng", ông Lưu Đình Phúc - Cục trưởng Cục PTTH và TTĐT Bộ TTTT. Hoa hậu Phan Thị Mơ trải lòng về Kiều Vừa ra rạp, Kiều của đạo diễn Đỗ Thành An nhận nhiều ý kiến trái chiều từ kỹ thuật hậu kỳ đến kịch bản… Nữ diễn viên chính, Hoa hậu Đại sứ Du lịch Thế giới - Phan Thị Mơ có những trải lòng giữa tâm bão’. Nỗi ám ảnh mang tên 'nhạy cảm', 'chặt chém' tiền làm phim Các nhà làm phim băn khoăn kịch bản hay bị loại vì có yếu tố "nhạy cảm", kịch bản hay nhưng phim không hay nổi vì đã bị "cắt xén", "chặt chém" tiền làm phim. Phim hay tháng 2 Phim Việt tệ hại, điện ảnh Hàn Quốc dẫn đầu - Danh sách những bộ phim chiếu rạp đáng xem nhất tháng 2/2020 không có sự xuất hiện của phim Việt, Hàn Quốc chỉ có một phim nằm trong danh sách nhưng cũng chính là phim hay nhất. Nhân vật "chú bán dầu - chú bán ếch" ở Bắc Kim Thang có đủ, bạn có nhận ra? Bài đồng "Bắc Kim Thang" có vẻ như chỉ là một lời dẫn mào đầu trong tác phẩm điện ảnh cùng tên, nhưng khi áp dụng truyền thuyết của bài ca và từng lời hát sẽ thấy nhiều sự trùng hợp đến lạ. Bắc Kim Thang thu về 30 tỷ đồng sau 3 ngày công chiếu Bộ phim này có những điểm xuất sắc nào? Cuối tuần qua, phim Bắc Kim Thang đã trở thành top 1 doanh thu phòng vé, nhận về hơn 5 tỷ đồng chỉ sau 5 giờ công chiếu. Con gái yêu’ trên SCTV14 - nghìn lẻ một’ rắc rối tình yêu học trò Lấy bối cảnh chính là một trường cấp 3 quốc tế, "Con gái yêu" đề cập đến những vấn đề mà các cô cậu học trò tuổi mới lớn vẫn thường gặp phải Tình yêu và sự tò mò giới tính. Phía sau cảnh nóng của phim Việt đang phát sóng trên VTV Hai diễn viên phải diễn xuất dưới lớp chăn bùng nhùng còn đội quay phim thì cố gắng chĩa máy vào trong để bắt được những pha nóng bỏng nhất. Cô bé bị ném đá vì diễn quá đạt vai hỗn láo ở phim 'Những cô gái trong thành phố' Nhân vật Trâm Anh do bé Hà Anh thủ vai diễn đạt đến mức khiến người xem bức xúc. Chuyện làm phim Cổ phần hóa Hãng phim Châu Giang - Tôi viết những dòng này không nhằm chê trách ai cũng như chê chính mình, vì tôi nằm trong cái guồng máy làm phim mới vừa manh nha thoát thai “mực hệt” ở Việt Nam. Tôi chỉ kể một vài chuyện thiên hạ để chúng ta cùng tham khảo. Phim Việt gây tranh cãi với trích đoạn bị chồng già từ hôn vì mất đời con gái Trích đoạn cảnh Mai bị lão chồng già từ hôn vì mất đời con gái trong "Những cô gái trong thành phố" thu hút gần 3 triệu lượt xem. Đừng coi thường khán giả như thế! Rất nhiều khán giả bất bình vì "Gạo nếp gạo tẻ" kéo dài lê thê, 'bôi' thêm số tập nhưng ngày càng nhiều tình tiết vô lý, xây dựng tính cách nhân vật không nhất quán khiến bộ phim đang nhận 'gạch đá' dữ dội. Khi ông già Noel gặp Quỳnh búp bê Quỳnh búp bê, Cả một đời ân oán, Ngày ấy mình đã yêu trở thành chủ đề ảnh chế Giáng sinh vô cùng hài hước. Sau 'Quỳnh búp bê', phim về xã hội đen đột ngột ngừng chiếu trên VTV1 "Kẻ ngược dòng", bộ phim về đề tài giang hồ miền Tây vừa lên sóng được 4 tập đã đột ngột biến mất khỏi sóng VTV1 mà không hề có bất cứ thông báo nào. 'Chạy trốn thanh xuân' tập 1 Bị vòi tiền cờ bạc, con gái gọi công an bắt mẹ Ngay tập 1 "Chạy trốn thanh xuân", bộ phim thế sóng "Quỳnh búp bê" đã thu hút với những phân cảnh kịch tính liên quan đến mẹ con An Lưu Đê Ly và bà Mỹ Thanh Tú. Diễn viên Lê Bình trở lại màn ảnh dù đang điều trị ung thư Mặc dù đang điều trị ung thư phổi nhưng Lê Bình vẫn tái ngộ người hâm mộ trong bộ phim "Kẻ ngược dòng" lên sóng VTV từ 26/11. Chuyện không ngờ sau những cảnh cưỡng bức gây sốc trên phim Việt Nhiều diễn viên bị đau thật khi giằng co lúc đóng cảnh bị hiếp dâm, thậm chí nhiều người còn kiệt sức sau khi hoàn thành cảnh nóng. Nam diễn viên lùn nhất màn ảnh Việt làm khán giả cười bò Jimmi Khánh - người được mệnh danh là nam diễn viên lùn nhất màn ảnh Việt tái xuất bất ngờ trong tập 2 'Mẹ ơi bố đâu rồi'.
Lượt xem 527 HOW TO CALL AND WRITE THE LANGUAGE NAME OF ETHNIC IN VIETNAM Tác giả bài viết TẠ VĂN THÔNG Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt NamTẠ QUANG TÙNG Viện Ngôn ngữ học TÓM TẮT Hiện nay, chưa có văn bản chính thức nào quy định riêng về cách gọi đọc và cách ghi từ ngữ gốc dân tộc thiểu số trong tiếng Việt, trong đó có tên các dân tộc và tên ngôn ngữ. Do vậy, cách đọc và cách ghi các từ ngữ này trong văn bản tiếng Việt chưa thống nhất. Thường gặp là mỗi loại ấn phẩm tiếng Việt phải tự chọn cho mình cách xử lí, dẫn đến sự không thống nhất về cách viết, cách đọc giữa các ấn phẩm thậm chí trong một ấn phẩm. Bài viết bàn đến tên ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam; từ đó đề xuất cách gọi và cách viết các tên nêu trên Căn cứ vào cách đọc tên dân tộc và tên các nhóm địa phương ở nguyên ngữ để phỏng âm đọc theo tiếng Việt; Phiên chuyển bằng chữ Quốc ngữ có thay đổi một vài quy tắc Quốc ngữ cho phù hợp với cách đọc cách viết ở các ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Từ khóa Cách gọi và cách viết tên ngôn ngữ của các dân tộc; Tên dân tộc; Tên ngôn ngữ; Các dân tộc thiểu số. ABSTRACT Currently, there are no official documents that specifically regulate how to call read and how to write the original ethnic minority words in Vietnamese, including the ethnic groups and language names. Therefore, the way of reading and writing these words in Vietnamese documents is not consistent. It is common for each type of Vietnamese publication to choose for itself how to handle it, leading to inconsistency in writing, reading between publications, even in a publication. The article discusses the language name of ethnic groups in Vietnam; thereby proposing a way to call and write the above names Based on how to read the ethnic names and the local groups names in the original language to sound read in Vietnamese; The transcription in National language has changed some of the National language rules to suit the way of reading in the ethnic minority languages. Keywords How to call and how to write the language names of ethnic; Ethnic name; Language name; Ethnic minorities. xx x 1. Tên dân tộc và tên ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam Dân tộc và tên dân tộc Sự phân định các dân tộc ở các quốc gia đa dân tộc trên thế giới cũng như ở Việt Nam, luôn là một quá trình phức tạp, bắt đầu từ việc xác định thế nào là một “dân tộc” hay “tộc người”; căn cứ tiêu chí nào để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Cho đến nay, theo ý kiến của đa số những nhà khoa học, trong hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, đưa ra các tiêu chí để một cộng đồng được gọi là dân tộc như sau – Thống nhất chung về văn hoá vật chất và tinh thần; – Thống nhất chung về ngôn ngữ; – Thống nhất chung về ý thức tộc người và tên gọi cùng nhận một tộc danh. Trong việc xác định thành phần các dân tộc ở Việt Nam, có tình trạng khó thống nhất triệt để trong nhiều trường hợp cụ thể. Danh mục các dân tộc thiểu số ở nước ta được công bố ở những thời kỳ khác nhau không thống nhất về số lượng 64 dân tộc, 59 dân tộc và hiện nay đang là 54 dân tộc. Điều đó phản ánh một sự thật là hiện nay ở Việt Nam, quá trình tộc người theo hai khuynh hướng cơ bản hợp nhất và phân li. Cho đến nay, Danh mục thành phần dân tộc Việt Nam 1979 gồm tên cách gọi và cách ghi của 54 dân tộc được sử dụng và thường sử dụng trong các lĩnh vực liên quan đến dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Tên các dân tộc ở Việt Nam không chỉ thuộc vấn đề của ngôn ngữ học, mà còn liên quan đến dân tộc học, văn hóa học, nhà quản lý. Có hai loại 1/ tên chính thức; 2/ tên không chính thức tên tự gọi hoặc do các dân tộc khác gọi, ngoài tên chính thức. Ngay cả đối với các tên chính thức, hiện nay có những tên có nhiều cách ghi khác nhau trong các loại văn bản. Ví dụ về những tên không chính thức bên cạnh tên chính thức – Kinh Việt Keo, Doan Yuan, Việt… – Khmer Cur, Cul, Việt gốc Miên, Khơ Me Krôm… – Mường Mol, Mual, Moi… – Mông Mèo, Mẹo… – Dao Mán, Động, Trại, Dìu Miền, Kiềm Miền… – Ngái Xín, Lê, Đán, Khách Gia… – Sán Chay Hờn Bạn, Sơn Tử… – Cơ Ho Còn Chau... – Chăm Chàm, Chiêm... – Sán Dìu Trại, Trại Đất, Mán Quần Cộc… – Hrê Chăm Hrê, Chom, Lũy… – Mnông Pnông, Nông… – Giáy Nhắng, Dẩng… – Gié – Triêng Giang Rẫy... – Mạ Còn Chau, Chau Mạ… – Khơ Mú Xá, Xá Cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh, Tày Hạy… Ngoài các tên nói trên, còn có tên chỉ các nhóm địa phương có thể tự gọi hoặc do các dân tộc khác gọi. Đôi khi tên gọi nhóm riêng này được dùng phổ biến và quen thuộc hơn cả tên gọi chung của cả dân tộc. Ví dụ – Tày Tày, Ngạn, Pa Dí, Thu Lao… – Gia Rai Chor, Hđrung, Arap, Mthur, Tbuăn… – Chứt Arem, Rục, Mày, Sách, Mã Liềng, Kri... – Ê Đê Kpă, Mthur, Ktul, Đliê, Hruê, Blô, Ê Pan, Bih, Krung, Đliê, Kđrao… – Thổ Thổ, Kẹo, Họ, Mọn, Cuối, Tày Poọng, Đan Lai – Xơ Đăng Xơ Teng Hđang, Tơ Đrá, Mơ Nâm, Ha Lăng, Ca Dong – Bru – Vân Kiều Khùa, Mang Coong, Trì Sộ, Vân Kiều – Giẻ -Triêng Giẻ, Triêng Ta Liêng, Ve, Bơ Noong Pơ Noong… Hiện nay, chưa có văn bản chính thức nào quy định riêng cách ghi tên các dân tộc thiểu số trong tiếng Việt. “Ngôn ngữ”, “tiếng địa phương” trong thực tế đời sống và trong tiếng Việt Theo cách hiểu thông thường, tương ứng với 54 dân tộc phải là 54 ngôn ngữ dân tộc nào cũng có ngôn ngữ tộc người của riêng mình. Tuy nhiên, trên thực tế thì tình hình ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam lại không đơn giản vậy. Hiện nay, việc xác định một cách chính xác số lượng các ngôn ngữ ở Việt Nam đang có những khó khăn nhất định. Có thể khẳng định, số lượng các ngôn ngữ ở Việt Nam lớn hơn con số 54 dân tộc. Trong đó, có những dân tộc gồm nhiều nhóm với các tiếng mẹ đẻ khác nhau. Theo những nghiên cứu gần đây, Việt Nam có khoảng trên 90 ngôn ngữ và rất nhiều các tiếng địa phương phương ngữ, thổ ngữ khác nhau. Dưới đây là bảng phân loại dân tộc học – ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam Ngữ hệ Nam Á 6 nhánh, là các ngôn ngữ thuộc 25 dân tộc, gồm 1. Nhánh Việt Vietic Việt, Mường, Thổ, Chứt 2. Nhánh Mảng Mangic Mảng 3. Nhánh Khơ Mú Khmuic Khơ Mú, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu 4. Nhánh Cơ Tu Katuic Cơ Tu, Ta Ôi, Bru – Vân Kiều 5. Nhánh Ba Na Bahnar Ba Na, Xơ Đăng, Giẻ – Triêng, Co, Hrê, Brâu, Rơ Măm, Cơ Ho, Xtiêng, Mnông, Mạ, Chơ Ro 6. Nhánh Khmer Khmeric Khmer Ngữ hệ Tai – Ka Đai 2 nhánh, là các ngôn ngữ thuộc 12 dân tộc, gồm 1. Nhánh Tày 8 dân tộc Tày, Thái, Nùng, Giáy, Bố Y, Cao Lan thuộc Sán Chay, Lào, Lự 2. Nhánh Ka Đai 4 dân tộc Cơ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo Ngữ hệ Nam Đảo 1 nhánh, là các ngôn ngữ thuộc 5 dân tộc, gồm 1. Nhánh Chăm Chamic Chăm, Ra Glai, Ê Đê, Gia Rai, Chu Ru Ngữ hệ HMông – Miền 2 nhánh, là các ngôn ngữ thuộc 3 dân tộc 1. Nhánh HMông HMông, Pà Thẻn 2. Nhánh Dao Dao Ngữ hệ Hán – Tạng 2 nhánh, là các ngôn ngữ thuộc 9 dân tộc 1. Nhánh Miến – Lô Lô Lô Lô, Hà Nhì, Phù Lá, La Hủ, Cống, Si La 2. Nhánh Hán Hoa, Ngái, Sán Dìu. Như đã đề cập ở trên, sự hình thành và tồn tại các nhóm địa phương, trên thực tế đã tạo nên sự đa dạng, đôi khi khó thống nhất về ngôn ngữ trong nội bộ một dân tộc. Nó tạo thành những thực thể ngôn ngữ ở địa phương với những tên gọi phương ngữ, thổ ngữ hay gọi chung là các tiếng địa phương, là những biến thể của ngôn ngữ chung. Tuy nhiên, trong không ít trường hợp, tiếng của các “nhóm địa phương” này lại là những ngôn ngữ độc lập. Như vậy, gọi tiếng các nhóm địa phương là các tiếng địa phương thật ra không đúng với nghĩa thuật ngữ. Trong ngôn ngữ học, phương ngữ dialect và thổ ngữ patois hoặc subdialect đều dùng để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ hoặc thổ ngữ khác. Khái niệm “tiếng địa phương” không rõ ràng như “ngôn ngữ”. Đôi khi người ta phải dùng “tiếng” để chỉ chung trong khi nói tiếng Cơ Ho, thì cũng có cả tiếng Sre, tiếng Lạt, tiếng Cơ Dòn, tiếng Nộp... tiếng các nhóm địa phương trong tiếng Cơ Ho của dân tộc Cơ Ho. Đôi khi các tiếng địa phương khó xác định do sự đối lập của nó với những sự vật khác gần với nó rất không rõ ràng Biên giới của một phương ngữ là ở đâu; Đặc điểm nào là cốt yếu phân biệt phương ngữ này với phương ngữ khác ngữ âm hay từ vựng; những nét ngữ âm nào…; Trong cái gọi là “phương ngữ” đó có các tiếng địa phương nào là thổ ngữ của nó, hay là một thổ ngữ bị “lạc đến”, hay là một phương ngữ thậm chí ngôn ngữ riêng biệt…? Trong bài viết này, tiếng địa phương trước hết hiểu là “tiếng các nhóm địa phương”, đồng thời cũng có thể hiểu là “phương ngữ” và “thổ ngữ”. Cũng như ngôn ngữ, các tiếng địa phương hiểu theo nghĩa “phương ngữ, thổ ngữ ” luôn trong trạng thái bảo lưu và biến đổi. Sự biến đổi này chủ yếu do các nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ. Các biến thể ngôn ngữ ở các vùng thường phát triển theo hướng duy trì sự thống nhất trong sự đa dạng, trong đó xu hướng thống nhất là cơ bản. Có khi đa dạng rồi thống nhất, rồi lại nhấn mạnh vào sự đa dạng, hoặc trong cái đa dạng có sự thống nhất, tùy thuộc vào những điều kiện xã hội – lịch sử nhất thời. Trong thực tế, không phải trong mọi trường hợp một dân tộc chỉ sử dụng một ngôn ngữ, cũng như mỗi ngôn ngữ chỉ được sử dụng ở một dân tộc. Ở Việt Nam đã gặp những khó khăn về ngôn ngữ học trong xác định thành phần dân tộc, khi một cộng đồng – Sử dụng hai hay hơn hai ngôn ngữ, thậm chí cả hai hay hơn hai tiếng địa phương. – Có hiện tượng thay thế ngôn ngữ dùng ngôn ngữ khác chứ không dùng tiếng mẹ đẻ, thậm chí coi ngôn ngữ khác là tiếng mẹ đẻ của mình. 2. Cách gọi đọc và cách viết tên ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam Một số quy định trước đây có liên quan đến cách gọi đọc và cách viết tên ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam Một số quy định đã có Năm 1983, Hội đồng “Chuẩn hoá chính tả” và “Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ” đã ký chung một Quyết định có nội dung về “Những quy định về chính tả tiếng Việt”. Năm 1984, có Quyết định số 240/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt. Năm 1995, có Quy tắc chính tả tiếng Việt và phiên chuyển tiếng nước ngoài của Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam. Năm 2002, có “Quy định tạm thời về chính tả trong sách giáo khoa mới” của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Năm 2003, có “Quy định tạm thời về viết hoa tên riêng trong sách giáo khoa” Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2003/QĐ-BGD&ĐT ngày 13/3/2003 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Năm 2006, Bộ Nội vụ lại tiếp tục có Dự thảo Quy định về viết hoa và phiên chuyển tiếng nước ngoài sang văn bản tiếng Việt. Năm 2011, Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam ban hành Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chuẩn hóa địa danh phục vụ công tác thành lập bản đồ quy chuẩn Việt Nam 372011/BTNMT Vụ Khoa học và Công nghệ trình duyệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành theo Thông tư số 23/2011/TT-BTNMT…. Nhận xét chung và tình hình thực tế xử lý các từ ngữ dân tộc thiểu số trong tiếng Việt. Nhận xét chung Hiện nay, chưa có văn bản chính thức nào quy định riêng về cách gọi đọc và cách ghi từ ngữ gốc dân tộc thiểu số trong tiếng Việt. Các từ ngữ gốc dân tộc thiểu số trong tiếng Việt được phiên chuyển nếu có, như các trường hợp tiếng nước ngoài. Tình hình thực tế Nhìn chung ở Việt Nam cho đến nay, cách viết, cách đọc và phiên chuyển các từ ngữ gốc dân tộc thiểu số trong văn bản tiếng Việt chữ Quốc ngữ chưa thống nhất. Thường gặp là mỗi loại ấn phẩm tiếng Việt phải tự chọn cho mình cách xử lý, dẫn đến sự không thống nhất về cách viết, cách đọc các từ ngữ nói trên giữa các ấn phẩm thậm chí trong một ấn phẩm. Trong các văn bản tiếng Việt, nhìn chung các từ ngữ nói trên thường được ghi theo cách của chữ Quốc ngữ viết rời, có dấu thanh, không có gạch ngang. Phân tích những khả năng – Giữ nguyên dạng chữ viết như trong nguyên ngữ nếu “nguyên ngữ” là chữ tự dạng latin – không phải chữ theo tự dạng Hán hoặc Sanscrit, hoặc không có chữ viết. Trên thực tế thì khả năng này đã không thực hiện được, do các hệ thống chữ viết chỉ tính riêng hơn 20 hệ chữ dạng latin quá đa dạng, theo những nguyên tắc không như nhau và trước hết phần lớn chưa được chuẩn hóa, chưa ổn định. Nếu “nguyên dạng” thì cùng một từ ngữ có thể có nhiều cách ghi khác nhau và trong một văn bản có thể có những đại diện của nhiều hệ thống chữ viết. Hơn nữa, nếu viết “nguyên dạng” thì một số trường hợp người không biết chữ dân tộc thiểu số sẽ không đọc được. – Phiên âm sang chữ Quốc ngữ, tức là ghi bằng chữ Quốc ngữ phỏng theo cách đọc âm đọc của nguyên ngữ. Cách này có đặc điểm là Cố gắng dùng các chữ cái, dấu và các quy tắc chính tả chữ Quốc ngữ để ghi được gần đúng nhất nguyên ngữ, trên cơ sở tôn trọng nguyên ngữ. Thường xảy ra tình trạng không ít phiền phức do chữ Quốc ngữ không phải là thứ chữ vạn năng nó vốn chỉ dùng để ghi tương đối phù hợp với tiếng Việt, đồng thời có sẵn không ít những bất hợp lý khi dùng để ghi ngữ âm tiếng Việt; nguyên ngữ của các dân tộc thiểu số có ngữ âm không như ở tiếng Việt. Nhìn chung để phiên âm được, phải bổ sung thêm cho chữ Quốc ngữ một số kí hiệu và ghép các chữ theo quy tắc mới để ghi các âm, tổ hợp phụ âm, âm “lướt”…; thay đổi một số cách ghi vốn có của chữ Quốc ngữ bổ sung cách viết liền các “tiếng”, dùng kí hiệu chữ cái hay dấu ghi một số âm cuối hoặc để đánh dấu một hiện tượng ngữ âm nào đó không phải là thanh điệu, ví dụ M’nông, Kon Tum, Tak Pỏ… Trên thực tế, cho đến nay việc thực hiện thay đổi cho phù hợp với cách đọc cách viết của Quốc ngữ đã gắn với các quy định đa dạng và không nhất quán về viết tách rời hay viết liền hay viết có gạch ngang đối với các từ âm vị học đa tiết; viết hoa chữ đầu của tất cả các tiếng hay chỉ viết hoa chữ cái đầu của tiếng thứ nhất… Như vậy, các đơn vị từ vựng nếu không được ghi bằng chữ trong nguyên ngữ thường ở vào trường hợp phiên chuyển bằng chữ Quốc ngữ. Trên thực tế, việc giữ nguyên cách phát âm, giữ nguyên dạng chữ viết như trong nguyên ngữ” đã gặp không ít khó khăn. Việc “phiên chuyển” cũng không dễ dàng. Nhiều khi, cùng một từ ngữ mà có nhiều cách ghi, hoặc mỗi người đọc một cách. Tóm lại chữ Quốc ngữ chỉ có thể phản ánh được gần đúng mặt âm của các từ ngữ vay mượn DTTS. Đề xuất cách gọi đọc và cách viết tên ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam Những nguyên tắc và quy định chung – Nguyên tắc Tên ngôn ngữ cần bám sát tên dân tộc tộc danh và tên các nhóm địa phương – phần lớn là tên tự gọi và đã lâu đời, quen thuộc. Cần tôn trọng đến mức cao nhất đối với nguyên ngữ ở mọi bình diện ngữ âm; ngữ nghĩa; ngữ pháp; chữ viết. Những từ ngữ nói trên khi vào ngôi nhà văn bản tiếng Việt, phải có được diện mạo của tiếng Việt và chữ Quốc ngữ. Nhưng điều này cần uyển chuyển vì có liên quan đến mối quan hệ giữa chủ nhà và khách. Cần rất lưu ý đến ý kiến ý thức tự giác; sự tự nguyện của người bản ngữ. – Quy định chung Đọc bằng tiếng Việt và phiên chuyển bằng chữ Quốc ngữ. Tôn trọng đến mức cao nhất đối với nguyên ngữ. Kế thừa các cách viết trước đây, không gây xáo trộn lớn. Đề xuất cách gọi đọc tên ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam Khi du nhập vào một ngôn ngữ khác, xét về bình diện ngữ âm cách đọc, hay giọng đọc, các tên ngôn ngữ các dân tộc thường ở vào các trường hợp sau – Giữ nguyên hoặc bám sát cách phát âm như trong nguyên ngữ. – Phỏng âm qua tiếng Việt. – Có thể ghép tên DTTS với yếu tố Việt ở một số trường hợp. Trên thực tế, việc “giữ nguyên cách phát âm, giữ nguyên dạng chữ viết như trong nguyên ngữ” gặp không ít khó khăn. Việc “phỏng âm” và “phiên chuyển” cũng không dễ dàng và đôi khi vô nguyên tắc. Nhiều khi, cùng một từ ngữ mà có nhiều cách ghi, hoặc mỗi người đọc một cách. Phỏng âm qua tiếng Việt là cách đọc có nhiều ưu điểm hơn cách giữ nguyên cách phát âm trong nguyên ngữ. Cụ thể là nên căn cứ vào cách đọc của nguyên ngữ để phỏng âm đọc theo tiếng Việt. Điều đó đảm bảo kế thừa cách đọc trước đây, không gây xáo trộn lớn. Trong đó cần lưu ý – Có thể đọc liền không tách bạch các âm tiết vốn được đọc liền các đơn vị – từ âm vị học đa tiết, gồm tiền âm tiết và âm tiết chính như trong nguyên ngữ; – Đọc một số tổ hợp phụ âm như chữ phiên chuyển Ví dụ tổ hợp phụ âm đầu br, pl, khr, đr, sl, nt, mp, mb, hm,…; – Đọc một số phụ âm cuối đặc biệt r, l, s, h + âm tắc thanh hầu như có dấu “sắc” hoặc “nặng” Đề xuất cách viết tên ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam Xét về bình diện chính tả cách ghi, các đơn vị từ vựng nếu đã được ghi bằng chữ trong nguyên ngữ thường ở vào các trường hợp sau – Giữ nguyên dạng chữ viết như trong nguyên ngữ. – Mượn và thực hiện thay đổi một phần cho phù hợp với cách đọc cách viết của ngôn ngữ đi vay; Thay đổi hoàn toàn cách viết khi khác hệ chữ – Phiên chuyển bằng chữ Quốc ngữ. Phiên chuyển bằng chữ Quốc ngữ có thay đổi một phần cho phù hợp với cách đọc cách viết của ngôn ngữ đi vay là cách viết có nhiều ưu điểm hơn cách giữ nguyên dạng chữ viết trong nguyên ngữ. Cụ thể là Trong những trường hợp cần thiết, có thể bổ sung một số ký hiệu ghi âm và tổ hợp phụ âm để phiên chuyển. Ví dụ tổ hợp phụ âm đầu br, pl, khr, đr, sl, nt, mp, mb...; bốn chữ cái f, j, w, z; các chữ ghi phụ âm cuối r, l, s, h. Có thể chỉ dùng chữ k để ghi âm vị /k/ không nhất thiết phải là c, qu như chữ Quốc ngữ, trừ các trường hợp quen dùng. Dùng dấu “nặng” hoặc “sắc” để ghi âm cuối tắc họng. – Kế thừa các cách viết trước đây, không gây xáo trộn lớn. Danh sách sau đây gồm tên ngôn ngữ các dân tộc ngôn ngữ tộc người và tiếng địa phương Bảng ngôn ngữ tộc người và các tiếng địa phương Ghi chú Trong ngoặc đơn là những khả năng khác – có thể dùng TTDân tộcNgôn ngữ tộc ngườiCác tiếng địa phương1KinhViệtViệt Bắc, Trung, Nam; Nguồn2TàyTàyTày Bắc, Tày Trung Tâm, TàyNam; Ngạn; Pa Dí…3TháiThái TaiThái Trắng Táy Khao, Thái ĐenTáy Đăm, Thái Do, Tày Mương,Táy Thanh, Tày Mười, Pu Thay,Táy Đeng, Tày Khăng…4MườngMườngMường Bắc Mường Sơn La,Mường Phú Thọ; Mường TrungMường Hoà Bình, Mường HàTây, Ninh Bình; Mường Nam ThổMọn, Thổ Như Xuân5KhmerKhơ Me Khmer6MôngHmông MôngHmông Lềnh, Hmông Đơư,Hmông Si, Hmông Sua, HmôngĐu, Na Miểu Sla, Mơ Piu7NùngNùngNùng Vẻn, Nùng An, Nùng PhànSlình, Nùng Cháo, Nùng Dín,Nùng Giang, Nùng Xuồng, NùngLòi, Nùng Inh8HoaHoaQuảng Đông, Hán Phúc Kiến, HánKhách Gia, Hán Sảng Phang, QuanHoả9DaoDao– Miền Dao Đỏ, Dao Đeo Tiền,Dao Coóc Ngáng, Dao Ô Gang,Dao Quần Chẹt, Dao Đại Bản, DaoTiểu Bản…;– Mùn Dao Quần Trắng, DaoThanh Y, Dao Áo Dài, Dao Họ,Dao Tuyển, Dao Làn Tẻn…;– Tống10Gia RaiGia Rai JraiChor, Hđrung, Arap, Mthur,Tơbuăn, Gơlar…11Ê ĐêÊ Đê ÊđêKpă, Mthur, Ktul, Đliê, Hruê, Blô,Êpan, Bih, Krung, Đliê, Kđrao…12Ba NaBa Na Bana,Bahnar, BơhnarTơlô, Gơlar, Rơngao, Kriêm,Jơlơng…13Sán Chay-Cao Lan-Sán Chí14ChămChămChăm Đông, Chăm Tây, ChămHroi15Cơ HoCơ Ho Kơho, K’hoSrê, Nộp, Cơdòn, Chil, Lạch…16Xơ ĐăngXơ Đăng SedangXơteng, Tơđrá, Mơnâm, Halăng,Cadong17Sán DìuSán Dìu18HrêHrê Hre19Ra GlaiRa Glai RơglaiRa Glai Bắc, Ra Glai Nam20MnôngMnông Mnong– Mnông Trung Tâm Preh, Biat,Bu Na, Bu Rung, Đih Brih, BuĐâng;– Mnông Đông Rơlơm, Gar,Koanh, Chil– Mnông Nam Bu Nông, Piâng,Bu Đip…21ThổThổThổ, Kẹo, Họ, Mọn, Cuối,Tày Poọng, Đan Lai…22XtiêngXtiêng Sơđiêng,StiêngBu Lơ, Bu Đeh, Bu Biêk23Bru-VânKiềuBru – Vân KiềuBruVân Kiều, Trì, Khùa, Mang Coong24Khơ MúKhơ Mú Khmụ25Cơ TuCơ Tu CơtuCơ Tu Cao, Cơ Tu Thấp, Phương26GiáyGiáyGiáy, Giáy Nắm27Gié-TriêngGié -TriêngJeh –TriêngGié Jeh, Triêng, Ve Veh,Bơnoong Pơnoong28Ta ÔiTa Ôi Ta-ôihTa Ôi Ta-ôih, Pa Cô Pakoh, PaHi Pahi29MạMạMạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, MạKrung30CoCo Cor; Kol;CùaCo Đường Nước, Co Đường Rừng31Chơ RoChơ Ro Chrau,Chrau Jro32Xinh MunXinh Mun KơsinhMulXinh Mun Dạ, Xinh Mun Nghẹt33Hà NhìHà NhìHà Nhì Co Chò, Hà Nhì Lạ Mí, HàNhì Nhì Na34Chu RuChu Ru Chru35LàoLàoLào Bốc Lào Cạn,Lào Nọi Lào Nhỏ36KhángKhángKháng Sơn La – Điện Biên, KhángQuảng Lâm37La ChíLa Chí38Phù LáPhù LáPhù Lá Lão, Phù Lá Đen, Phù LáHán, Xá Phó39La HủLa HủLa Hủ Na La Hủ Đen ; La Hủ SưLa Hủ Vàng, La Hủ Phung; LaHủ Trắng40La HaLa HaLa Ha Tà Mít, La Ha Noong Lay41Pà ThẻnPà ThẻnPa Thẻn Pà Hưng, Thuỷ42LựLự43NgáiNgái44ChứtChứtArem, Rục, Mày, Sách, Má Liềng,Kari Phoọng45Lô LôLô LôLô Lô Đen, Lô Lô Đỏ46MảngMảngMảng Mường Tè, Mảng MườngLay47Cơ LaoCơ LaoCơ Lao Đỏ, Cơ Lao Trắng,Cơ Lao Xanh48Bố YBố Y49CốngCống50Si LaSi La51Pu PéoPu Péo Ka Pẻo52Rơ MămRơ Măm Rơmăm53BrâuBrâu54Ơ ĐuƠ Đu Iđuh Cách gọi và cách viết tên ngôn ngữ các dân tộc trong tình hình thực tế hiện nay ở Việt Nam có liên quan đến cách đọc các từ vay mượn; mức độ sử dụng và sự lựa chọn các từ ngữ vay mượn; cách phiên chuyển trong các văn bản nói và viết… Đề xuất trong cách gọi và cách viết tên ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam Căn cứ vào cách đọc tên dân tộc và tên các nhóm địa phương ở nguyên ngữ để phỏng âm đọc tên ngôn ngữ theo tiếng Việt; Phiên chuyển bằng chữ Quốc ngữ có thay đổi một vài quy tắc Quốc ngữ cho phù hợp với cách đọc cách viết của các ngôn ngữ DTTS. Điều đó đảm bảo kế thừa cách đọc cách viết trước đây, không gây xáo trộn lớn. _________* Bài viết là sản phẩm nghiên cứu của đề tài khoa học cấp nhà nước “Nghiên cứu xác định thành phần ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trong mối quan hệ với vấn đề xác định thành phần dân tộc”, mã số ĐTĐLXH-05/18. TÀI LIỆU THAM KHẢO Trần Trí Dõi 2000, Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, Nxb. Đại học Quốc gia. Phạm Đức Dương 2000, Giải quyết mối quan hệ giữa ngôn ngữ quốc gia và ngôn ngữ các dân tộc ít người ở Việt Nam – Vấn đề và giải pháp, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10. Nguyễn Hữu Hoành 2010, Một số nhận xét bước đầu về từ điển Việt – Dân tộc, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 3 11. Nguyễn Văn Khang 2003, Kế hoạch hóa ngôn ngữ – Ngôn ngữ học xã hội vĩ mô, Nxb. Khoa học Xã hội. Tạ Văn Thông 1993, Mối quan hệ giữa chữ và tiếng các dân tộc thiểu số với chữ và tiếng Việt, Trong “Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam”, Nxb. Khoa học Xã hội. Tạ Văn Thông chủ biên, 2009, Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội. Tạ Văn Thông, Tạ Quang Tùng 2017, Ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Đại học Thái Nguyên. Tạ Văn Thông, Tạ Quang Tùng 2018, Survival of languages in Vietnam at Present, Journal of Vietnam Academy of Social Sciences, No 1, page 76 – 84. Hoàng Tuệ, Hoàng Văn Ma… 1984, Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam và chính sách ngôn ngữ, Nxb. Khoa học Xã hội. Banker, Miriam A., 1993, Bibliography of Muong and other Vietic language groups, with notes, Mon-Khmer Studies 23197-243. Edmondson J. A., Gregerson K. J., Nguyễn Văn Lợi 2001, Vài khía cạnh của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số miền cực bắc Việt Nam Dân tộc Đồng, Thuỷ, Pà Thẻn của hai tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang, Nxb. Thế giới. Gregerson, Marilin 1989, Ngôn ngữ học ứng dụng Dạy đọc chữ tài liệu cho các ngôn ngữ thiểu số; Tạp chí Ngôn ngữ, số 4. Solncev 1986, Những thuộc tính về mặt loại hình của các ngôn ngữ đơn lập, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3. Viện Ngôn ngữ học 2002, Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội. Nguồn Khoa học, Giáo dục và Công nghệJournal of ethnic minorities research, Volume 8, Issue 1 Thánh Địa Việt Nam Học
Chính phủ Việt Nam ngày 28/1 thông báo hành khách trên các chuyến bay quốc tế đến Việt Nam chỉ phải yêu cầu có giấy xét nghiệm PCR âm tính COVID-19 viêm phổi Vũ Hán, không phải thực hiện xét nghiệm nhanh trước khi lên và sau khi xuống máy bay. Nhân viên y tế lấy mẫu xét nghiệm nhanh COVID-19 đối với hành khách bay chuyến nội địa tại sân bay Nội Bài Hà Nội, tháng 7/2021. Ảnh minh họa Ngày 28/1, Văn phòng Chính phủ có văn bản gửi các cơ quan ban ngành liên quan truyền đạt chỉ đạo của Phó thủ tướng Phạm Bình Minh về việc thực hiện chuyến bay quốc tế thường lệ chở khách đến Việt Nam. Ông Minh đồng ý chủ trương tăng tần suất chuyến bay thương mại thường lệ chở khách đến các địa bàn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan Trung Quốc và mở rộng địa bàn áp dụng giai đoạn thí điểm tới châu Âu và Úc để đáp ứng nhu cầu về nước của người Việt Nam ở nước ngoài nhân dịp Tết Nguyên đán 2022. Hành khách trên các chuyến bay quốc tế đến Việt Nam chỉ cần có giấy xét nghiệm PCR âm tính COVID-19, không phải xét nghiệm nhanh COVID-19 trước khi lên và sau khi xuống máy bay. Phó Thủ tướng giao Bộ Ngoại giao chỉ đạo các cơ quan đại diện của Việt Nam tại các nước thúc đẩy các đối tác sớm trả lời đề nghị nối lại các chuyến bay thương mại quốc tế thường lệ và để người Việt Nam không bị yêu cầu cách ly khi đến các quốc gia như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc…; đồng thời có hướng dẫn về thủ tục nhập cảnh đối với người Việt Nam bị các nước từ chối nhập cảnh. Ngoài ra, ông Minh yêu cầu Bộ Y tế hướng dẫn cụ thể các biện pháp phòng chống biến chủng Omicron đối với người nhập cảnh; phía Bộ Công an được giao yêu cầu Cục Quản lý xuất nhập cảnh chủ động hướng dẫn thủ tục nhập cảnh, khai báo y tế đối với người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam, đảm bảo liên thông với dữ liệu của PC-COVID. Quyết định trên được đưa ra trong bối cảnh các đại diện Cục hàng không Việt Nam, đại diện hãng hàng không… đề xuất mở cửa du lịch quốc tế ngay trong tháng 2/2022, thay vì theo dự tính đến tháng 5/2022 của Tổng cục Du lịch Bộ VHTT&DL. Trước đó, vào đêm 21/1, Bộ GTVT ra quyết định “nới” yêu cầu trình xét nghiệm hoặc tiêm đủ vắc-xin COVID-19 với khách bay nội địa. Trừ trường hợp hành khách cư trú, lưu trú trước chuyến bay tại vùng dịch cấp 4/vùng phong tỏa hoặc hành khách trên chuyến bay xuất phát từ vùng dịch cấp 4/vùng phong tỏa, hành khách không cần đưa ra giấy chứng nhận tiêm đủ liều vắc-xin hoặc giấy xét nghiệm COVID-19 trước khi lên máy bay. Sơn Nguyên Xem thêm
qhim xét việt nam